Viêm phổi ở trẻ sơ sinh

Trẻ có thể bị bệnh từ khi còn trong bụng mẹ. Các triệu chứng xuất hiện rất sớm, chỉ vài giờ sau khi sinh; thường liên quan đến nhiều bộ phận trong cơ thể như gan lách to, nổi mẩn, có những chấm xuất huyết… Trong khi đó, các triệu chứng viêm phổi thường ít nên bệnh dễ bị bỏ qua.
Trẻ cũng có thể bị bệnh ngay trong khi đẻ do hít phải nước ối, phân su đã bị nhiễm khuẩn hoặc dịch tiết ở đường sinh dục của người mẹ. Bệnh thường xuất hiện sớm, sau đẻ từ 12 giờ đến vài ngày. Tỷ lệ tử vong cao dù được điều trị sớm bằng thuốc kháng sinh. Viêm phổi mắc phải xảy ra trong hoặc sau đẻ, nhưng thường là sau đẻ một tuần. Vi khuẩn gây bệnh có thể là virus, vi khuẩn (phế cầu, H.influenzae, coli, tụ cầu vàng…).
Bệnh cảnh lâm sàng ở trẻ sơ sinh thường không rõ như ở trẻ lớn. Trẻ thường không chịu bú, mệt mỏi, quấy khóc, da xanh, sốt cao hoặc hạ thân nhiệt, khó thở. Trẻ thở nhanh trên 60 lần/phút và không đều, có hiện tượng rút lõm lồng ngực do co kéo cơ liên sườn, khi thấy trẻ tím tái là bệnh đã nặng.
Về điều trị, nếu trẻ không sốt, không ho hoặc chỉ có ho, vẫn bú mẹ, thở đều, không thấy co rút lồng ngực, bụng di động theo nhịp thở, không tím tái… thì có thể theo dõi và chăm sóc tại nhà. Cho trẻ bú mẹ thường xuyên, làm thông thoáng mũi bằng cách hút, nhỏ mũi thuốc kháng sinh, cho uống thuốc ho; không cần dùng thuốc kháng sinh.
Nếu trẻ bỏ bú, thở nhanh, nông trên 60 lần/phút hoặc thở chậm dưới 40 lần/phút, có cơn ngừng thở, tím tái quanh môi và các đầu chi, trẻ vật vã hoặc ly bì là bệnh đã nặng, cần đưa trẻ đến bệnh viện ngay để được dùng thuốc kháng sinh thích hợp, dinh dưỡng bằng ống thông dạ dày và hồi sức cấp cứu kịp thời khi cần.
BS Nguyễn Long Châu, Sức Khỏe & Đời Sống
 

1gom